Thứ Năm, 16 tháng 3, 2017

CẢM NHẬN TẬP THƠ " LẠC SINH" : Cảm nhận phần đầu bài thơ " Tường Sơn trong ta" của tác giả Lê Quốc Thọ


CẢM NHẬN PHẦN ĐẦU BÀI THƠ “ TƯỜNG SƠN TRONG TA”
          CỦA TÁC GIẢ LÊ QUỐC THỌ.
                                                                                                DUY MINH 

    Trong tập thơ “ Lạc sinh” của tác giả Lê Quốc Thọ - bút danh Phan Long, do nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2016, có bài thơ “ Tường Sơn trong ta” ( trang 83 ). Bài thơ có thể phân làm 4 phần. Phần đầu bài thơ như sau:
“ Gần vạn con người gắn bó với Tường sơn
Có gì đấy mà ta yêu quý thế?
  
Từ buổi hoang sơ, đã bao thế hệ
Người về kẻ ở truyền nối lớn lên
Sông đổi bến bao lần
Núi thay áo bao phen
Làng Thượng, Hạ, Trung, Trang…vẫn bình yên xứ sở
Núi Tượng, Cồn Thần, Dây Diều, Bãi Mọ…
Chiến tích ngàn xưa lưu giữ diệu kỳ
Bao buổi ngậm ngùi tiễn lớp người đi
Bạt búi ngăn sông thay trời đổi đất
Đuổi sạch giặc thù, dù chúng đến từ phương Đông, Tây, Nam, Bắc
Gĩữ trọn vẹn quê mình đẹp mãi Tháp Bút, Nghiên Sen…
Để  “ Xã Anh hùng chiến đấu” thành tên …”

Đọc và suy ngẫm đọan  thơ trên, tôi xin có đôi điều cảm nhận:
  Mở đầu bài thơ, tác giả đặt một câu hỏi:
                        “ Gần vạn con người gắn bó với Tường Sơn
Có gì đấy mà ta yêu quý thế?  “
Câu thơ nghe như một lời nói, một câu hỏi bình thường, nhưng nay vào thơ, do sự tạo nhịp điệu, tác giả đã làm cho mỗi chúng ta bắt đầu có sự rung cảm trước quê hương và con người của xứ sở.
Để trả lời cho câu hỏi trên, tác giả ngược dòng thời gian:
Từ buổi hoang sơ đã bao thế hệ,
Người về kẻ ở truyền nối lớn lên”
Tác giả đưa ta đi về với cỗi nguồn các dòng họ Bùi Công, Lê Quốc, Nguyễn Văn, Thái Gia, Trần Đăng…đặt lư đồng châm hương giữa bốn bề lau sậy, xin với Trời Đất để được khai thiên lập địa, mở ruộng dựng làng, quần tụ vùng dân cư cho muôn đời sau; thời các nhà thờ đạo Thiên Chúa Hội Phước Chính Yên rung tiếng chuông đầu tiên giữa vùng thánh địa hoang sơ…đến hôm nay trải qua bao thăng trầm nghiệt ngã, chuyển giao qua bao thế hệ, bao cuộc phân ly, tao ngộ để cho quê mình lớn lên.
Từ “ người về, kẻ ở”, tác giả muốn nói đến: người về cõi bồng lai tiên cảnh, kẻ ở lại chốn trần gian sinh sôi nảy nở; cũng có ý ngợi ca những người đã hoàn thành nhiệm vụ với nước với dân trở về hưu nghỉ, vui với gia cảnh đoàn viên, và lớp lớp thế hệ sau, kế tục nhiệm vụ. Người về - kẻ ở, cứ truyền nối lớn lên, ấy là sự truyền nối vĩnh hằng không bao giờ ngừng nghỉ.
Hai câu thơ:  “ Sông đổi bến bao lần
Núi thay áo bao phen”
Như một cặp đối chỉn chu : Sông – Núi, Đổi – Thay, Bến – Aó, Bao lần – Bao phen; nghe như lời đối và đáp từ ngàn xưa vọng lại hôm nay.
Thiên nhiên có thể khắc nghiệt, chiến tranh có thể ác liệt, sông núi có thể đổi thay, nhưng “ Làng Thượng, Hạ, Trung, Trang vẫn bình yên xứ sở”, câu thơ nói lên sự khẳng định, một câu chính luận, ấy là sự bất di bất dịch của chính nghĩa thắng hung tàn, của quê hương đã được thiên thư định phận.
Tác giả nhắc tên các thắng cảnh:
Núi Tượng – Cồn Thần – Dây Diều – Bãi Mọ…
Chiến tích ngàn xưa lưu giữ diệu kỳ”
Đây là những địa danh đã gắn liền với với chiến công qua các thời kỳ. Dẫu năm tháng có thể phôi pha, dẫu những người làm nên chiến công đã trở về thiên cổ, song công lao của họ còn ghi dấu ấn trên các địa danh lưu truyền mãi mãi.
Người dân Tường Sơn đã góp công sức tài trí vào việc xây dựng và bảo tồn bản sắc quê hương, người dân Tường sơn còn sẵn sàng hưởng ứng lời kêu gọi của non sông đất nước ra đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ nhiệm vụ gì, dẫu cho mỗi một thắng lợi đều chứng kiến một sự hy sinh mất mát.
Bao buổi ngậm ngùi tiễn lớp lớp người đi”…
Những từ ngữ của câu thơ này, đọc xong ta ngẫm ngùi trong sự hoài niệm tựa như tan nghe tiếng đàn bầu hạ xuống cung trầm trong đêm thanh vắng…
Thế rồi, thật là điêu luyện, hai câu tiếp theo, tác giả đã tung ra nhứng từ vô cùng mạnh mẽ:
Bạt núi – ngăn sông- thay trời – đổi đất,
Đuổi sạch giặc thù, dù chúng đến từ phương Đông- Tây- Nam- Bắc”
Nhịp điệu gấp gáp dồn dập như cơn đại hồng thủy, sẵn sáng cuốn phăng đi tất cả mọi thế lực, mọi kẻ thù khi chúng giám đụng đến quê hương Tường Sơn thân yêu:
Gĩu trọn vẹn quê mình mãi Tháp Bút, Nghiên Sen
Để “ Xã Anh hùng chiên đấu” thành tên”.
Hai câu thơ khép lại phần đầu bài thơ như một chân lý bất hủ: Tháp Bút, Nghiên Sen, hai kỳ quan thiên tạo đã ghi nhận chứng giám khí phách anh hùng của bao thế hệ con người trên mảnh đất thiêng liêng này
Bút pháp hành văn đoạn thơ trên giống như những bài phú của các bậc tiền bối. Phải chăng đây là dụng ý của tác giả muốn khẳng định: Quê mình cổ lại càng cổ, dày truyền thống lại càng thêm dày truyền thống, đẹp tính nhân văn lại càng đầy tính nhân văn.
Đọc toàn bài “ Tường Sơn trong ta” và nhất là đoạn thơ này, tôi cảm nhận tác giả đã đạt tới đỉnh cao của thơ viết về quê hương. Không những gần vạn con người Tường Sơn, mà bất cứ độc giả nào, dù ở đâu cũng thấy hết những điều đáng quý, đáng yêu, đáng gắn bó vói hai chữ Tường Sơn rồi.
Nếu có điều kiện đọc toàn bài thơ “ Tường sơn trong ta”, cho phép tôi được ghi nhận rằng: Tác giả bài thơ đã dùng nghệ thuật tu từ cô đọng lại ý tưởng của mình bằng bốn câu lục bát giống như điệp khúc của một bài ca dao để in  sâu vào trong tâm khảm mỗi chúng ta:
Tường Sơn phong cảnh hữu tình
Cổ kim nhân kiệt địa linh rạng ngời
Viết nên trang sử tuyệt vời
Quê ta giàu đẹp đời đời quý yêu.”


                                                      Duy Minh.


1 nhận xét: