Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2017

HAI ĐƯỜNG THẲNG

HAI ĐƯỜNG THẲNG

Trên trang đời như  hai đường thẳng x,y
Tình cờ gặp, giao nhau từ một điểm
Thỏa mãn mọi điều cho cần và đủ
Anh cùng em say cạn chén tình hồng.

Trong ánh trăng cùng tắm mát bên sông
Cùng tay trong tay đi giữa đồng lúa chín
Cùng bước lên thuyền mà lòng bao bịn rịn
Cùng giảng đường mắt trong mắt tìm nhau

Những buổi gió đông về đôi tim sưởi ấm cho nhau
Những buổi nắng hè dưới  cây rừng ta cùng chung bóng mát
Lúc tạm vắng nhau ta chung niềm khao khát
Thời gian trôi mau để lại được gần nhau.

Nhưng cuộc đời  gây cảnh biển dâu
Hai đường thẳng có duyên nhưng không có phận
Trở nên hai đường thẳng song song chìm trong tuyệt vọng
Trong mặt phẳng cuộc đời, không bao giờ giao điểm cùng nhau
Vẫn đó thôi chung cát tuyến mặc dầu
Góc đồng vị, góc so le trong tuy vẫn cùng giá trị
Vẫn phụ nhau khi hai góc trong cùng phía
Lắng đọng nhớ thương ta tiệm cận đồng hành.
Biển tình mãi mênh mông và sông tình mãi trong xanh
Nhưng trong mắt đời, hai ta là Người Dưng định mệnh
Dẫu đắng cay, thôi đành chấp nhận
Sao Hôm – sao Mai cho hết phận đời…!


                          Lê Quốc Thọ.

BÊN NỚ - BÊN NI

BÊN NỚ - BÊN NI
Mẹ làng Dừa: từ thuở  xã Đồng Vinh*
Đã có làng Mặc Điền, làng Trung, Trang, Thượng , Hạ.
 Đổi tên thành Xã Vĩnh Tường: bên này khu Hai, bên kia khu Một…
Rồi nay, Hùng Sơn – Tường Sơn bên nớ , bên ni.
Chung một dòng Lam, phong cảnh hữu tình
Lễ vu quy, em lên xe hoa về làm dâu bên ấy
Vẫn chung nhịp cầu thắm tình nội ngoại.
Đời mãi nối đời  hạnh phúc có nhau.
Thời gian mãi trôi… non nước vẫn tươi màu
Đồng bãi lúa ngô rộng dài , đồi nương mía chè bát ngát.
Di tích xưa bên nớ còn dấu đền thờ Lê Quốc Cầu Đô đốc**,
Bên ni còn từ đường Lê Quốc tộc uy nghiêm.
Còn đây : Bến Ngữ, đò Rồng – Núi Bút, Ao Sen
Danh lam thắng cảnh quê mình sáng tên vàng sử sách.
Lịch sử  mấy trăm năm qua bao thử thách
Chiến thắng  đói nghèo, địch họa, thiên tai.
 Để hôm nay Hùng Sơn đạt “ Xã nông thôn mới” vẻ vang,
Tường Sơn “ Xã anh hùng lực lượng vũ trang” trong thời kháng chiến .
                                            *
Sáng Xuân nay, trên Đất Mẹ Quê Ta muôn yêu ngàn mến
Ta viết vần thơ ca ngợi cuộc đời ta
Thơ Làng Dừa – Thơ Bến Ngự nở hoa
Thắm sắc tỏa hương vui hòa cùng đất nước
Dẫu còn câu nắng câu mưa cái mất điều được
Mầm thơ nẩy giữa ruộng đồng vẫn bát ngát hồn thơ
Bay giữa mây trời Đồng Hội, bãi Mơ…
Thấm  sâu vào lòng đất Đồng Dừa, Bãi Mõ…
Tác giả thơ Dừa tuy bên ni – bên nớ
Mãi vẫn là hai đứa con yêu của MẸ LÀNG DỪA.

                                               Lê Quốc Thọ

*Địa danh Làng Dừa xưa, năm 1946 là xã Đồng Vinh, khoảng năm 1948 đổi tên là xã Vĩnh Tường, rồi nay thành 2 xã : Hùng Sơn, Tường sơn.

** Ông Lê Quốc Cầu, thời nghĩa quân Tây Sơn kéo quân ra Bắc giúp vua Nhà Lê đuổi quân Nhà Thanh, Ông gia nhập nghĩa quân, do lập công lớn, ông được  phong Đô đốc  ( vua Cảnh Thịnh phong cho ông ngày 2 tháng 10 năm 1796 )và được thưởng 3 đạo sắc. Khi được nghỉ hưu, ( năm 1802) Ông chiêu dân tán cư tại núi rừng các xứ về lập làng Mặc Điền, để ghi nhớ công đức của Ông, sau khi  Ông tạ thế ( năm 1831 ) nhân dân đã lập đền thờ . Trải qua bao biến cố, nay đền  chỉ còn dấu tích là cái nền của đền. Ông là đời thứ 5 kể từ ông Thủy tổ họ Lê Quốc, nay có nhà thờ uy nghiêm tọa lạc ở thôn 8 xã Tường Sơn.